Tôn Tử viết:

Phàm dụng binh chi pháp: Tướng soái nhận lệnh vua, nhận lệnh của vua để đi đánh kẻ bạo ngược. Sau đó, tập hợp quân lính, dân chúng, tổ chức đội hình quân đội, sau mới bày trận đối địch. Tụ người trong nước, hợp để làm quân. Sau khi họp hợp quân, khoẻ yếu, mạnh nhát, hơn kém, trái thuận, đem trộn lộn vào, hợp thành dinh luỹ, cùng quân địch tranh đấu.

Trong quá trình đó, khó nhất là quân tranh, nghĩa là giành lấy lợi thế. Cái khó nhất của việc này là phải biến đường vòng thành đường thẳng, biến bất lợi thành có lợi. Việc tập hợp dân chúng, hình thành đội quân, đóng quân trong doanh trại thì mọi thứ có luật lệ, quy định, cứ vậy mà theo. Nhìn ra tình hình, biến hoá thực lực, ra quyết định trong khoảnh khắc, lấy hại làm lợi là những việc khó nhất.

Tuy đi đường vòng nhưng lấy cái lợi nhỏ dụ địch, làm địch chậm trễ thì mới có thể xuất phát sau mà tới được trước yếu địa cần tranh, thế là hiểu được phương pháp biến cong thành thẳng. Chiếm được nơi có địa hình chiến lược thì có thể thắng, mình muốn chiếm cái địa lợi ở nơi nào đó ở gần ta thì phải có cách. Vậy, muốn chiếm được thì phải hành quân đi xa ra, đi vòng, sau đó lấy lợi ích mà nhử địch, khiến họ không ngờ là ta tiến đến nơi ta chủ đích muốn đến, địch tham lợi của ta, cho nên ta có thể đi sau mà đến trước, ấy gọi là lấy cong làm thẳng, lấy hại làm lợi.

Quân tranh vừa có cái lợi, vừa có nguy hiểm. Quân ta đến trước, được chỗ tiện lợi thì là lợi. Để quân địch đến trước, chiếm mất chỗ chiến lược, sau đó quân ta mới tiến quân đến tranh giành, thì địch nhàn ta mỏi nhọc, đó chính là nguy.

Đem hết quân đi tranh lợi thì không kịp, bỏ lại quân mà tranh lợi thì đồ tri trọng mất. Toàn bộ ba quân với trang bị vũ khí, áo giáp, chiến xa, lương thảo…cùng tiến thì đi rất chậm, không thể kịp để tranh địa lợi. Bỏ lại những kho tàng để đem quân nhẹ nhõm mà đi, nếu quân địch thừa cơ mà đến, cướp chặn đằng sau, thì những đồ tri trọng của mình mất mát hết cả.

Vì thế, nếu cuốn giáp lại mà tiến gấp, ngày đêm không nghỉ, đi mau, để đi trăm dặm tranh lợi thì tướng lĩnh của ba quân có thể bị bắt. Muốn đi mau chóng thì phải bó gươm cuốn giáp, kéo quân cất lẻn đi đêm. Nhưng trong chiến tranh sẽ luôn có gián điệp, nội gián, vậy nhỡ mà quân giặc biết tình hình, đón đường để đánh, thì tướng ba quân tất bị bắt về tay giặc.

Lính khỏe tới trước, yếu ớt, mệt mỏi tới sau, như vậy, chỉ có một phần mười binh lực tới được trận địa trước. Đi đường vất vả, trong quân thì người dũng mãnh thì ít, kẻ mệt mỏi thì nhiều. Như thế mà gặp quân địch, cả hai nhóm đến trước và nhóm rớt lại phía sau đều gặp nguy hiểm, tướng, quân có thể bị bắt.

Đi năm mươi dặm tranh lợi, tướng lĩnh tiền quân sẽ bị chặn, chỉ có một nửa binh lực tới trước. Hành quân trăm dặm thì mười người đến một, hành quân năm mươi dặm thì gần hơn, mười người thì đến được năm, chỉ gẫy quân uy chứ không đến nỗi phải bị bắt.

Đi ba mươi dặm tranh lợi, chỉ có hai phần ba binh lực tới trước. Đường gần, hành quân tập trung, binh lực đến được nhiều, cho nên không có sự chết, sự thua.

Quân đội không có trang bị nặng ắt thua, không có lương thảo ắt chết, không có vật tư ắt khó sống. Đều là cách nguy vong cả.

Cho nên, không biết ý đồ chiến lược của các chư hầu, không thể tính việc kết giao. Tức là, không biết cái mưu của nước địch thì không thể dự bị kết giao với nước láng giềng để làm cái thế viện trợ.

Không biết trước chỗ đóng quân, chưa thông hiểu địa hình sông núi hiểm trở như thế nào, đầm hồ lầy lội ra sao, không thể hành quân được.

Không dùng người dẫn đường không thể chiếm địa lợi. Vào đất nước của địch, sợ núi sông hiểm nghèo, đất cát lầy lội, giếng suối bất lợi, vậy phải sai người đưa đường để có được cái địa lợi.

Dùng binh đánh trận phải dựa vào biến hóa, gian trá mới mong thành công, phải căn cứ vào chỗ có lợi hay không mà hành động. Lấy biên trá làm gốc khiến quân địch không biết kỳ, chính của ta ở đâu, thì ta mới có thể làm nên chuyện được. Thấy lợi thế mới hành động, chứ không phát động xằng bậy.

Tùy sự phân tán hay tập trung binh lực mà thay đổi chiến thuật. Hoặc chia đội hình quân ta ra, hoặc tụ họp cái thế quân ta lại. Những việc này phải căn cứ tình hình động tĩnh của bên địch mà làm ra sự biến hoá, điều binh khiển tướng cho phù hợp.

Quân đội hành động thần tốc thì nhanh như gió cuốn, hành động chậm rãi thì lừng khừng như rừng rậm. Sự đến nhanh nhẹn, tới đâu lướt tới đấy. Khi đi thong thả thì như cây trong rừng, hàng lối tuân thủ răm rắp.

Khi tấn công thì như lửa cháy, khi phòng thủ thì như núi đá. Như lửa bừng bừng, cái thế mạnh như lửa bốc lớn, không ai dám cản, mà nếu có dám cản thì cũng cản không nổi. Khi bất động, giấu quân, phòng thủ thì như núi đá, không di chuyển được.

Khi ẩn mình thì như bóng tối, khó biết như mây rậm, khi xung phong thì như sấm sét. Khiến quân địch không thể lường biết, như mây đen trên trời khiến cho không thể thấy trăng sao gì cả. Nhanh chóng tấn công thì uy lực như sấm sét, không thể ứng kịp.

Cướp làng chia bọn, mở đất chia lợi. Tức là, trong đạo dùng binh, lương thì lấy bên nước địch, nhưng lương thảo tích trữ trong từng làng xã không nhiều, nên phải chia binh đi các nơi mà cướp thì mới đủ dùng. Mở mang bờ cõi, tất phải chia binh mà giữ lấy lợi ích, chia lợi ích cho quân ta, không để cho kẻ địch chiếm được.

Phải cân nhắc lợi hại, được mất rồi mới tùy cơ hành động. Cân nhắc sự nặng nhẹ của địch, xét rõ sự hiền ngu của tướng rồi mới căn cứ trên tình hình quân ta để có được hành động phù hợp.

Trước hết phải rõ phương pháp biến cong thành thẳng để giành thắng lợi, ấy là nguyên tắc quân tranh. Phàm tranh lợi với nước người, tất nhiên trước tiên phải tính đến đường sá cong thẳng, xét kỹ rồi mới hành động, vậy thì không có cái nạn vất vả và đói rét, biết để mà tiến thoái nhanh chậm, không lỡ thời cơ, cho nên sẽ dành chiến thắng vậy.

Sách Quân Chính viết: “Ngôn bất tương văn, cố vi kim cổ, thị bất tương kiến, cố vi tinh kỳ” có nghĩa là “Khi tác chiến mà dùng lời nói chỉ huy e quân nghe không được, phải cần đến chiêng trống. Dùng động tác e quân không nhìn thấy, phải cần đến cờ lệnh.

Chiêng trống, cờ lệnh dùng để thống nhất hành động của toàn quân. Tiếng chiêng, trống để cùng nghe chung, dựng ra hình dáng của cờ lệnh để cùng nhìn thấy chung. Trông thấy, nghe thấy đều nhau thì tuy có trăm vạn quân cũng sẽ cùng tiến thoái, hành độnh như một.

Toàn quân đã hành động nhất nhất, thì người lính dũng cảm không thể tiến một mình, người lính nhút nhát cũng không thể lùi một mình, toàn quân sang trái, sang phải, tiến, lùi cùng nhau, đó là phương pháp chỉ huy toàn thể đội hình tác chiến. Đánh trận ban đêm thì dùng chiêng trống, lửa, đánh trận ban ngày thì dùng cờ lệnh.

Đối với quân địch, có thể làm tan nhuệ khí của chúng. Đối với tướng địch, có thể làm dao động quyết tâm của họ. Đối với quân ta, “chí khí, nhuệ khí” là cái mà ta cần phải trong cậy trong sự chiến đấu, khi chí khí được khơi dậy thì trong cuộc tranh chiến, sẽ chiến đấu cho đến chết mà không chịu thôi. Cho nên, cái phép dùng binh, nếu phát động, khêu gợi được nhuệ khí của tướng sỹ, khiến cho trên dưới một lòng, cùng tức giận với quân địch thì sẽ như mũi giáo cứng nhọn, không ai cản nổi.

Cho nên, sĩ khí của quân đội lúc mới giao chiến thì hăng hái, sau một thời gian dần dần suy giảm, cuối cùng tiêu tan. Người giỏi dùng binh phải tránh nhuệ khí hăng hái của địch, nên giữ vững hình thế quân bên ta, chờ cho đến khi nhuệ khí đó của chúng bị tiêu tan giảm sút, trễ biếng, muốn về thì đánh. Nắm chắc sĩ khí quân đội, khéo trị cái sỹ khí của mình để đoạt cái sỹ khí của địch.

Lấy sự nghiêm chỉnh của quân ta đối phó với sự hỗn loạn của quân địch, lấy sự bình tĩnh của quân ta đối phó với sự hoang mang của quân địch, đó là cách nắm chắc tâm lý quân đội, là trị “lòng” quân. Chính lệnh bất nhất, thưởng phạt không minh là loạn, cờ phướn lộn xộn, hàng ngũ xôn xao là hoang mang, lo lắng, khi thấy rõ bên địch như thế thì đem quân đánh.

Lấy gần chờ xa, lấy nhàn chờ mệt (dĩ dật đãi lao), lấy no chờ đói, đó là cách nắm chắc sức chiến đấu của quân đội, là trị “sức” quân, khéo trị sức mình để làm khốn sức người.

Không đi chặn đánh quân địch đang có hàng ngũ chỉnh tề, không đánh kẻ địch có thế trận và lực lượng hùng mạnh, đó là cách nắm vững biến hóa chuyển động, đó là trị “biến”. Việc binh phải tuỳ bên địch mà biến đổi, địch có hình thế ba quân chỉnh tề thì đừng đánh, ấy là biết trị sự biến hoá.

Nguyên tắc dùng binh là: địch chiếm núi cao thì không đánh lên, địch dựa vào gò núi mà khiêu chiến với mình thì cũng không công đánh tới, không giao chiến. Bởi từ thấp đánh lên cao thì sức đuối, từ trên cao mà đánh xuống thấp thì thế thuận, gò núi thì dễ nấp để tấn công bất ngờ, chớp nhoáng, ta không thấy địch, địch thấy rõ ta.

Địch vờ thua chạy thì không nên đuổi theo, quân địch tinh nhuệ thì chưa nên đánh vội. Khi quân địch lui chạy, tất phải xem xét kỹ thực giả, nếu cờ trống nhịp nhàng, hiệu lệnh như một thì tuy họ chạy lui, là lui, chứ không phải là thua, tất có kỳ binh, không nên đuổi theo.

Địch cho quân ta nhử mồi thì mặc kệ chúng, đừng có lấy, địch rút về nước thì không nên chặn đường. Người ta mong mỏi muốn về tất chịu tử chiến, vậy không nên ngăn cản mà đánh.

Bao vây quân địch nên chừa một lối thoát cho chúng, địch cùng khốn thì không nên quá bức bách chúng. Tỏ cho họ có đường sống, khiến họ không có bụng liều chết, nhân thế rồi mình mới đánh. Con thú đến lúc khốn cùng còn biết quật lại, huống chi là con người, nên cẩn trọng suy xét, tính toán. Nếu họ biết là không thoát khỏi mà quay ra liều đánh lại ta thì ta tất phải bị thiệt hại với họ, có khi thua trận.

Ấy là cái phép dùng binh.

Banner động Tư vấn trực tiếp